♻️ Ngũ tạng là 5 cơ quan tàng trữ:
Tâm tàng thần
Phế tàng phách
Can tàng hồn
Tỳ tàng ý và trí
Thận tàng tinh và trí
TÂM :
Chủ thần minh
Chủ huyết mạch, ứng ở mặt
Quan hệ với lưỡi.
CAN:
Can tàng huyết
Can chủ mưu sự * (mưu kế, lo nghĩ )*
Can quan hệ với gân, móng tay móng chân
Can quan hệ với mắt.
TỲ :
Tỳ chủ vận hoá
Tỳ thống huyết
Tỳ quan hệ với tứ chi, cơ nhục cho đến miệng, môi.
PHẾ :
Phế chủ khí
Phế chủ tiết, điều hoà huyết dịch của thân thể
Phế hiệp với da lông
Phế khai khiếu ở mũi
Phế quan hệ với cuống họng âm thanh.
THẬN :
Thận tàng tinh
Thận quan hệ với sinh trưởng phát dục
Thận chủ về hoả của mệnh môn
Thận chủ xương tủy thông với não
Thận khai khiếu ở tai và nhị âm (đại, tiểu tiện)
♻️ÂM –DƯƠNG
Tính âm và tính dương là hai tính chất có trong sự vật đặc biệt là trong cơ thể con người và những bộ phận, cơ quan trong đó.
Thông thường ai cũng thấy được tính ÂM và DƯƠNG của sự vật, như:
Bóng tối ( âm ) và ánh sáng ( dương )
Lạnh ( âm ) và nóng ( dương )
Nặng ( âm ) nhẹ ( dương )
Bên trong ( âm ) bên ngoài (dương )
Phía dưới ( âm ) và phía trên ( dương ) vv …
Cần ghi nhớ những quy luật sau đây:
Có âm tất phải có dương (và ngược lại) mới thành sự vật.
Trong âm có dương và trong dương có âm.
Âm sinh trong dương và dương sinh trong âm.
Âm và dương sinh ra nhau và khống chế nhau.
♻️NGŨ HÀNH
Nếu âm dương là những nguyên tính gây ra biến chuyển (dịch biến) thì ngũ hành là quy luật chung nhất của dịch biến.
Ngũ hành là 5 bước đi có khi gọi là ngũ vận (là 5 đoạn chuyển đổi).
Vậy ngũ hành là 5 giai đoạn biến đổi, chuyển hóa của sự vật đặc biệt là sự sống , sinh lý con ngườ
Mộc - hỏa- thổ - kim- thủy (gỗ - lửa – đất – vàng nước) không phải là chất liệu, mà chỉ là những tên gọi tiện lợi của 5 đoạn chuyển biến, chúng chỉ có tính tượng trưng cho quá trình dịch biến.
Mộc (thuộc gỗ) tượng trưng cho trạng thái phát triển, mùa xuân thuộc mộc.
Hỏa (lửa) tượng trưng cho mức cùng tột lớn nhất của sự vật, mùa hạ thuộc hỏa.
Thổ (đất) biểu tượng cho mức trung hòa của biến hóa: mùa trường hạ (khi hè sắp sang thu) thuộc hành thổ.
Kim (vàng , kim loại) tượng trưng cho chức năng đang thoái hóa), mùa thu thuộc kim.
Thủy (nước) biểu tượng sự ngưng đứng yên tỉnh chuẩn bị cho một ký biến đổi khác, mùa đông thuộc thủy, nó chuẩn bị cho muà xuân tới.
Về y lý cần nhớ những sự vật tương ứng với ngũ hành như sau:
MỘC - HỎA - THỔ - KIM - THỦY.
Can - tâm - tỳ - phế - thận
Đởm - tiểu trường – vị - đại trường - bàng quang.
Cân - mạch - nhục - bì - cốt.
Nộ (giận), hỷ (mừng), tư (nghĩ), bi (buồn), kinh (sợ).
Phong (gió), nhiệt (nóng), thấp (ướt), táo (khô), hàn (lạnh).
Giữa các hành có 2 quan hệ sau:
Quan hệ tương sinh (hỗ trợ - giúp đỡ):
Mộc sinh hỏa, hỏa sinh thổ, thổ sinh kim, kim sinh thủy, thủy sinh mộc.
Quan hệ tương khắc (ức chế, điều tiết):
Mộc khắc thổ, thổ khắc thủy, thủy khắc hỏa, hỏa khắc kim, kim khắc mộc.^
THẤT TÌNH: NGUYÊN NHÂN NỘI THƯƠNG
THẤT TÌNH (7 tình huống)
Hỷ (mừng) - Nộ (giận) - Ai (thương xót) - Tư (lo nghỉ) - Ưu (buồn rầu, lo lắng)-
Khủng (sợ hãi) -
Kinh (hoảng loạn)
MỪNG: thì khí bị tán - mừng quá thương tâm.
lưu ý: ''thương = hại''.
GIẬN: thì khí nghịch - giận quá thương can.
LO: thì khí bị hãm - lo quá hại phổi.
NGHĨ: thì khí bị kết - nghĩ nhiều hại tỳ vị.
SỢ: thì khí bị khiếp - sợ hại thương thận.
KINH: thì khí bị loạn - kinh hoãng hại đởm.
THƯƠNG: Thì khí bị hao.
LỤC KHÍ: NGUYÊN NHÂN NGOẠI CẢM
Lục khí là:
PHONG (gió) - HÀN (lạnh) - THỬ (nắng) - THẤP (ẩm ướt) -
TÁO (khô ráo) - HOẢ (lửa, nóng).
HÀN hại khí thì run.
THỬ hại khí thì nóng bức.
TÁO hại khí thì bí kết.
THẤP hại khí thì phù thũng.
PHONG hại khí thì đau. nhức.
-,HOẢ hại khí thì loá, mờ mắt.
NGŨ TẠNG BỊNH CƠ
Bệnh ghẻ phát ngứa đều thuộc TÂM.
Bệnh phong làm xây xẩm đều thuộc CAN.
Bệnh thấp làm đầy trướng đều thuộc TỲ.
Bệnh về uất hơi đều thuộc PHẾ.
Bệnh lạnh dẫn phát đều thuộc THẬN.
NGŨ LÃO SỞ THƯƠNG
Nhìn lâu hại huyết
Nằm lâu hại khí
Ngồi lâu hại thịt
Đứng lâu hại xương
Đi lâu hại gân
TỨ CHẨN
LÀ 4 phép xem xét hay 4 phép khám để biết bệnh.
VỌNG CHẨN: trông , nhìn hình sắc, điệu bộ...
VĂN CHẨN: là nghe ngóng âm thanh, hơi thở, ý tứ...
VẤN CHẨN: là hỏi rõ căn bệnh, trạng chứng.
THIẾT CHẨN: Là xét đoán bộ mặt.
Vọng - văn - vấn - thiết tuy có sếp thứ tự trước sau đó là nói:
Trước tiên ta nhìn hình sắc người bệnh (vọng).
Rồi nghe tiếng nói (văn)
Hỏi thêm căn bệnh (vấn).
Sau cùng mới thiết mạch (thiết).
Hầu như thứ tự này không thể đảo lộn.
Nhưng chỉ cần biết rằng VỌNG là sơ khởi còn THIẾT là tối hậu. Vọng, văn, vấn có thể linh động trong chung một lúc, hay thiết mạch có thể cùng vọng văn vấn cũng được. Miễn là người thầy thuốc có đủ khả năng, tinh thần và tài nghệ.
Phép TỨ CHẨN là là công việc đầu của người thầy thuốc và là chủ chốt rất cần thiết khi khám bệnh và điều trị. Người làm công việc khám và điều trị phảỉ sử dụng cả ngũ quan của mình:
THỊ GIÁC thần kinh để xem xét.
THÍNH GIÁC thần kinh để nghe ngóng.
KHẨU GIÁC thần kinh để hỏi đáp.
XÚC GIÁC thần kinh để chẩn đoán.
KHỨU GIÁC thần kinh để đánh hơi.
Mặc dù ngày nay đã văn minh hay sau này còn văn minh đến cực độ, mãi mãi trước sau vẫn lấy TỨ CHẨN làm căn bản để thi dụng trong việc trị bệnh. Không thể chê bỏ được bởi đó chính là bộ môn khoa học tinh kỳ, giao hoà với âm dương, ứng với ngũ hành, đối chiếu với kinh lạc tạng phủ của con người, có kỷ cương, có đạo lý, uyên thâm mà phong phú vô tận.
NGŨ SẮC:
Đỏ, xanh, trắng, vàng, đen đó là những màu sắc có thần khí hiện lên trên sắc diện mỗi người.
Đỏ thì đỏ tươi.
Xanh thì xanh láng.
Trắng thì trắng bóng.
Đen thì đen nhánh.
Vàng thì vàng tươi.
Nếu trên gương mặt thể hiện rõ nét ngũ sắc, có thần có khí, thì bệnh nhân có sức sống động, bệnh không nguy kịch, và ngược lại.
NHÌN TOÀN BỘ MẶT
Mặt đỏ hồng là phong.
Mặt tái xanh là đau bụng.
Mặt trắng lợt là hàn.
Mặt thẳm đen là lao.
Mặt vàng là đại tiểu tiện khó khăn.
NHÌN MŨI
Đầu mũi bình thường đỏ và ngứa là phong nhiệt.
Bất thường đỏ là bệnh nặng.
Đầu mũi xanh là đau bụng.
Đầu mũi trắng là mất máu.
Đầu mũi đen là trong người tích nhiều nước.
Đầu mũi vàng là trong bụng lạnh.
NHÌN: MÔI, MIỆNG, LƯỠI
môi dưới tự nhiên thâm đen là tỳ , thận hàn
Môi đỏ là tâm, vị nhiệt.
Lưỡi sưng to đầy trong miệng nói không ra tiếng là ''trùng thiệt".
Ăn uống không tiêu.
Lưỡi sưng trong miệng mà cứng là ''mộc thiệt'' làm khó thở.
Đầu lưỡi nhọn và đỏ, đỏ cả hai môi là tâm nhiệt.
Lưỡi cứng lưỡi co rụt là nguy chứng.
Giữa lưỡi trũng xuống chung quanh lưỡi như răng cưa là bệnh bất trị.
Phía trên và phía dưới lưỡi phồng lên như bong bóng là bệnh bất trị.
NHÌN MẮT
Mắt đỏ sưng là can nhiệt.
Mắt không đỏ nhưng nước mắt sống chảy ra hoài là can huyết hư.
Mí mắt dưới phía trong trắng lợt là can huyết hư hàn.
NHÌN CHUNG HÌNH SẮC TRONG LÚC BỆNH NẶNG
Hơi người xông ra hôi thúi là thịt đã chết.
Lưỡi rụt, bìu dái xăn là can đã tuyệt.
Miệng há hốc là tỳ đã tuyệt.
Tóc dựng đứng, da thịt và xương khô là thận đã tuyệt
Vành mắt trũng xuống, mồ hôi ra từng giọt trên mắt dính lại không rớt xuống là dương khí tuyệt.
Móng tay, móng chân biến sắc xanh là can, thận tuyệt.
Phương pháp đông y nói chung và y học dân tộc nói riêng đã có nhiều mặt đúng đắn, khoa học, nên trải qua nhiều thử thách vẫn luôn đóng vai trò quan trọng...!
🌐Tiktok: